Đời sống trong đất nước bị chiếm đóng Đức_chiếm_đóng_Luxembourg_trong_Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai

Công chúng đã phản ứng chậm chạp lúc đầu, vẫn cảm thấy sốc từ cuộc xâm lược năm 19141918. Hơn nữa hoàng gia và chính phủ đã âm thầm trốn sang sống lưu vong. Phần lớn người dân vẫn giữ sự bình tĩnh xuống mức thấp để tránh bất kỳ cuộc xung đột nào với chính quyền; những người khác tham gia vào các hành động phản kháng thụ động.

Đức hóa

Chính quyền của Simon đến Luxembourg để hoàn toàn thuyết phục người dân Luxembourg rằng tiến trình "Đức hóa" của họ chỉ đơn thuần nằm dưới một lớp mỏng ở mặt ngoài ảnh hưởng của Pháp. Điều này sẽ có nghĩa là với một chút kiên quyết "làm sáng tỏ" bởi chính quyền của ông, đặc điểm Đức của dân chúng về cơ bản sẽ tiết lộ ra chính nó.[2] Simon đã có hai mục tiêu rõ ràng:

  • Sự phát xít hóa và Đức hóa của Luxembourg, tức là bài trừ tất cả mọi thứ không có nguồn gốc Đức, giống như tên gọi tiếng Pháp và từ gốc Pháp hay một lối sống Pháp.
  • Việc tiêu huỷ và chia cắt của các cơ quan nhà nước Luxembourg, và việc sáp nhập nước này vào Đế chế thứ ba.

Một loạt sắc lệnh đầu tiên của ông nhằm thực hiện chính sách này rất rõ ràng:

  • Ngày 6 tháng 8 năm 1940: Tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất và việc sử dụng tiếng Pháp đều bị cấm. Lệnh cấm được áp dụng vào việc sử dụng chính thức và hành chính cũng như đời sống hàng ngày. Ngoài những từ biểu hiện tác phong nhã nhặn trong tiếng Pháp như "Bonjour", "Merci", "Monsieur", "Madame", v.v... còn bao gồm: mọi người chào hỏi nhau đều phải nói câu "Heil Hitler".[3]
  • Mùa thu năm 1940: Các đảng phái chính trị và công đoàn độc lập, Quốc hội và Conseil d'Etat đều bị giải tán. Tất cả các tổ chức xã hội dân sự và báo chí buộc phải chịu sự kiểm soát của Đức Quốc xã.
  • Đến cuối năm 1940, người Đức đã cho du nhập luật lệ của mình vào Luxembourg bao gồm SondergerichteLuật Nuremberg.
  • Ngày 31 tháng 1 năm 1941: Họ tên tiếng Pháp và tên gọi đường phố, thị trấn, cửa hàng và công ty đều phải Đức hóa, do đó được dịch sang bản sao Đức của nó hoặc đơn giản là thay thế bằng một cái gì đó mang hơi hướng tiếng Đức hơn.[2][3] Chẳng hạn như Henri trở thành Heinrich, Dupont trở thành Brückner.
  • Ngày 18 tháng 2 năm 1941: Cấm người dân đội mũ nồi (một loại mũ lưỡi trai truyền thống đến từ xứ Bắc Basque).[3]
  • Từ tháng 5 năm 1941 nhiều thanh niên Luxembourg được lệnh gia nhập lực lượng Reichsarbeitsdienst.[2]

Một chiến dịch tuyên truyền khổng lồ đã được đưa ra nhằm gây tác động đến dân chúng. trong khi không chỉ những người bất đồng chính kiến và nhà phê bình mà còn cả giáo viên, cán bộ và doanh nhân hàng đầu đều bị đe dọa mất việc làm, trừ khi họ gia nhập các tổ chức phát xít, dẫn đến sự gia tăng việc tuyển dụng từ mọi ngành nghề. Một trung tâm đăng ký ghi nhận những ý kiến cá nhân về chế độ phát xít của hầu hết mọi người dân. Những người dám công khai phản đối chế độ sẽ bị mất việc làm hoặc bị trục xuất, chủ yếu là sang miền Đông Đức và trong trường hợp xấu nhất bị gửi đến các trại tập trung khiến họ phải bỏ mạng ngay tại đây.

Chính quyền chiếm đóng đã cố gắng bao phủ Luxembourg bằng một mạng lưới các tổ chức chính trị, xã hội và văn hóa như vậy vẫn còn tồn tại ở nước Đức bao gồm Hitlerjugend, Bund Deutscher Mädel, Winterhilfswerk, NS-Frauenschaft và Deutsche Arbeitsfront.[4]

Giáo hội Công giáo

Giáo hội Công giáo tại Luxembourg tương đối im lặng trong suốt cuộc chiến và chẳng có lập trường nào về số phận của người Do Thái hay chế độ phát xít. Một mặt, Giám mục Joseph Laurent Philippe lại nằm liệt giường vì bệnh tật, và do đó đã không lời tuyên bố nào cung cấp cho phe đối lập đang hoạt động. Mặt khác, đức giám mục không muốn tiếp tục chống đối quân chiếm đóng và gây nguy hiểm cho đời sống tôn giáo vốn đã mong manh của Giáo hội, phải chịu rất nhiều hạn chế trong thời chiến. Tuy thế, Giám mục Philippe đã từ chối gặp gỡ các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã và có chuẩn bị trong trường hợp chức vụ của mình bị bỏ trống.[5]

Giáo hội đã nhìn thấy sự tồn tại của nó bị đe dọa khi dần dần bị đẩy ra khỏi đời sống công cộng bằng các chính sách chống tôn giáo của Đức Quốc xã: các sự kiện tôn giáo chung chẳng hạn như lễ kỷ niệm Octave hoặc múa diễu hành đều bị cấm, các tổ chức Công giáo bị giải thể, giáo dục tôn giáo trong các trường học bị bãi bỏ, và một lệnh cấm các dòng tu hoạt động.[3][5] Đồng thời, việc quản lý giáo phận vẫn là một trong số rất ít các tổ chức của người Luxembourg còn được nguyên vẹn trong chiến tranh, mặc dù điều này là chắc chắn trong chốc lát, và việc trục xuất giám mục đã được suy xét cẩn thận bởi chính quyền chiếm đóng.[5]

Lực lượng kháng chiến

Chỉ có một phần nhỏ dân số nước này tham gia vào Lực lượng kháng chiến Luxembourg. Quá trình thành diễn ra tự phát và chậm chạp vào lúc đầu. Các nhóm đầu tiên được thành lập từ mùa thu năm 1940 đến mùa hè năm 1941.[2] Vào lúc khởi đầu họ hoạt động mà không có sự phối hợp và xuất phát từ những động cơ khác nhau, ví dụ phe cánh Tự do đối lập với chính sách chống Do Thái và ủng hộ dân chủ cũng như người Công giáo bảo thủ với đôi khi có ít nhiều khuynh hướng chống Do Thái. Một số thể loại này cũng đồng thời phản đối việc Liên Xô và "chủ nghĩa Judeo-Bolshevik", hy vọng rằng các tướng Phổ của Wehrmacht sẽ đánh bại Joseph StalinHồng quân, trong khi cùng lúc che giấu người Do Thái và giáo sĩ chống phát xít ở lẫn vào nhau trong trang trại của họ. Quân kháng chiến Luxembourg còn được sự tham gia của Đảng Cộng sản Luxembourg sau khi Đức xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941.

Các hoạt động của phong trào kháng chiến phần lớn đều hướng tới phá hoại ngầm sự độc quyền của Đức về thông tin, và hỗ trợ tinh thần cho người dân bằng cách phân phát chống tuyên truyền thông qua hình thức truyền miệng, truyền đơn, tờ rơi và sau đó là toàn bộ các tờ báo. Ngoài ra, quân Kháng chiến còn giúp đỡ tù binh và những phi công bị bắn rơi của phe Đồng Minh, "binh sĩ đào ngũ" từ Wehrmacht và một số người dân Luxembourg khác đang trong cơn nguy ngập phải vượt biên vào Bỉ hoặc Pháp. Sự ra đời của lao động cưỡng bức và nghĩa vụ quân sự vào Wehrmacht đã bổ sung thêm nhiệm vụ của quân Kháng chiến: một số lượng lớn thanh niên Luxembourg từ chối phục vụ trong lực lượng vũ trang Đức giờ phải ẩn náu trên khắp đất nước đều được họ giữ gìn an toàn và chu cấp ăn uống, hoặc giúp đỡ trốn ra nước ngoài. Sự quyên góp lương thực và tiền bạc còn được dùng để giúp đỡ các gia đình của những người bị bắt giữ, trục xuất hoặc bị sa thải khỏi công ăn việc làm. Một phần quan trọng trong các hoạt động ngày càng gia tăng của quân Kháng chiến là cung cấp tin tình báo quân sự, chính trị và kinh tế cho phe Đồng Minh. Trong lúc xảy ra một số hành vi phá hoại, hiếm khi nào quân Kháng chiến lộ diện và được coi là quá mạo hiểm trong một đất nước nhỏ bé không có chỗ hẻo lánh nào để mà rút lui sau mỗi phi vụ. Đối với lý do tương tự, việc quân Kháng chiến tiến hành chiến đấu vũ trang chống lại những kẻ chiếm đóng là rất hiếm. Cuối cùng, nhiều phong trào đã liên lạc với chính phủ lưu vong, quân Đồng Minh, và các phong trào kháng chiến Pháp và Bỉ, với nhiều người trẻ tuổi đã gia nhập lực lượng kháng chiến vũ trang ở Pháp và Bỉ.[2]

Phản kháng thụ động

Người Luxembourg phục vụ trong quân đội Đức với tên gọi Luftwaffenhelfer

Kháng cự thụ động bất bạo động đã lan rộng tại Luxembourg trong suốt giai đoạn này. Từ tháng 8 năm 1940, Spéngelskrich ("Cuộc chiến những cái ghim") đã diễn ra khi người dân Luxembourg đeo những cái huy hiệu yêu nước (miêu tả màu sắc quốc gia hoặc nữ Đại Công tước) phải hứng chịu những đòn tấn công từ VdB.[6]

Tháng 10 năm 1941, quân chiếm đóng Đức đã làm một cuộc khảo sát thường dân Luxembourg để hỏi về phát biểu quốc tịch của họ, tiếng mẹ đẻ của họ và nhóm chủng tộc của họ, nhưng trái với mong đợi của Đức, 95% trả lời "Luxembourg" cho mỗi câu hỏi.[7] Việc từ chối tuyên bố mình là công dân Đức đã dẫn tới việc nhà cầm quyền ra lệnh bắt giữ hàng loạt.

Nghĩa vụ quân sự đặc biệt không được người dân ưa thích. Ngày 31 tháng 8 năm 1942, chính phủ công bố nghĩa vụ quân sự sẽ được mở rộng dành cho tất cả nam giới sinh ra từ năm 1920 đến năm 1927, một cuộc đình công bắt đầu nổ ra ở thị trấn phía bắc Wiltz.[3] Các cuộc đình công lan rộng nhanh chóng, làm tê liệt các nhà máy và ngành công nghiệp của Luxembourg.[8] Nhà cầm quyền đã nhanh chóng dập tắt cuộc đình công và bắt giữ các nhà lãnh đạo của phong trào này. 20 người bị đưa ra xét xử qua loa trước tòa án đặc biệt (tiếng Đức gọi là "Standgericht") và bị xử bắn ở gần trại tập trung Hinzert.[3] Tuy nhiên, các cuộc biểu tình chống lại nghĩa vụ quân sự vẫn tiếp tục và 3.500 người Luxembourg đã đào ngũ sau khi bị bắt đi lính cho quân đội Đức.[9]

Cộng tác

Sự cộng tác với Đức Quốc xã là một khía cạnh ít được nhắc đến tại Luxembourg. Những cộng tác viên chủ yếu được tìm thấy trong Volksdeutsche Bewegung, một tổ chức ủng hộ chế độ Đức Quốc xã và tham gia việc chia cắt đất nước Luxembourg. Các thành viên trung thành nhất gia nhập tổ chức đều xuất phát từ những cá nhân phải chịu áp lực hoặc những kẻ cơ hội. Một số nhà sử học ước tính rằng số lượng cộng tác viên gần tương đương quân kháng chiến. Khoảng 2.000 cộng tác viên đã bị kết tội phản quốc sau khi kết thúc chiến tranh, trong đó có chín cá nhân bị xử tử. Số khác vẫn còn bị giam giữ cho đến những năm 1950 thì mới được ân xá toàn bộ.

Đàn áp

Đối mặt với sự phản đối từ công chúng, chính quyền chiếm đóng đã cho tiến hành các biện pháp tàn bạo chống lại bất kỳ hình thức kháng cự nào. Sau cuộc tổng đình công năm 1942, Gustav Simon tuyên bố tình trạng khẩn cấp và mở đầu cho Standgerichte của Đức, Hàng ngàn người đã bị nhà cầm quyền bắt giữ và tra tấn. Hàng trăm người đã chết trong các trại tập trung. Toàn bộ các gia đình đã bị trục xuất sang miền Đông Đức và được các gia đình Đức thay thế, chủ yếu đến từ miền Nam TyrolĐông Âu. Vào tháng 8 năm 1940, Gestapo đã thành lập trụ sở chính tại Villa Pauly ở Thành phố Luxembourg, với một dãy văn phòng ở Villa Seligmann tại Esch và Villa Conter ở Diekirch.[2]

Ngày 9 tháng 9 năm 1942, Gauleiter đã công bố một "chiến dịch tái định cư dành cho người Luxembourg. Từ đó cho đến năm 1944, hơn 1.410 gia đình (4.200 cá nhân) được tái định cư ở phía Đông, Sudetenland và Thượng Silesia. Họ mất hết mọi tài sản của mình và được giáo dục để trở thành "người Đức tốt", hơn nữa còn bị cấm quay trở về Luxembourg. Từ năm 1943 trở đi, ngoài các gia đình bị trục xuất vì lý do chính trị, người Đức đã bắt đầu tái định cư các gia đình có con cái trốn tránh nghĩa vụ quân sự vào Wehrmacht hoặc những kẻ đào ngũ khỏi đơn vị của mình. Trong số người tái định cư này có tới 73 người đã chết trong trại, trong đó có 9 trẻ em, chủ yếu là do suy dinh dưỡng và thiếu thốn các phương tiện y tế cần thiết.[2]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đức_chiếm_đóng_Luxembourg_trong_Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai http://www.feldgrau.com/a-lux.html http://www.feldgrau.com/lux.html http://www.zug-der-erinnerung.eu/dostert.html http://www.cathol.lu/archidiocese-erzbistum/les-an... http://www.forum.lu/pdf/artikel/3901_179_Schoentge... http://www.gouvernement.lu/1828371/Gouvernements_d... http://www.gouvernement.lu/salle_presse/actualite/... http://www.onsstad.lu/uploads/media/ons_stad_71-20... http://www.onsstad.lu/uploads/media/ons_stad_71-20... http://www.cna.public.lu/1_FILM/EnSavoirPlus/dossi...